Nghiên cứu khoa học, Sư phạm Ngữ văn
Mấy vấn đề dạy học Văn theo hướng Thi pháp học
TS. Phạm Ngọc Hiền
Thi pháp học là bộ môn khoa học cũ mà mới. Cũ là bởi vì nó đã xuất hiện ở Hy Lạp từ thời cổ đại với Nghệ thuật thi ca của Aristote. Nhưng Thi pháp học với tư cách là một bộ môn khoa học chỉ hình thành vào đầu thế kỷ XX ở Nga rồi dịch chuyển sang Âu – Mỹ và phổ biến khắp thế giới. Ở Việt Nam trước 1975, Thi pháp học đã thâm nhập vào miền Nam nhưng chưa có điều kiện phổ biến ở miền Bắc. Mãi đến sau Đổi mới, nó mới được chú ý và nhanh chóng trở thành “mốt” thời thượng được nhiều người vận dụng. Thi pháp học được dạy ở bậc Cao học, Đại học. Tinh thần Thi pháp học đang thấm dần trong sách giáo khoa, trong giờ giảng văn và trong bài làm văn học sinh. Thi pháp học đang thu hút sự quan tâm của giới học đường.
Hiện nay, có nhiều cách hiểu về Thi pháp học. Nhưng trong nhà trường, nên có một cách hiểu thống nhất vì tất cả học sinh phải học chung một sách giáo khoa, thi chung một đề, một đáp án. Có thể hiểu, thi pháp học là cách thức phân tích tác phẩm bám vào văn bản là chính, không chú trọng đến những vấn đề nằm ngoài văn bản như: tiểu sử nhà văn, hoàn cảnh sáng tác, nguyên mẫu nhân vật, giá trị hiện thực, tác dụng xã hội… Thi pháp học chỉ chú ý đến những yếu tố hình thức tác phẩm như: hình tượng nhân vật – không gian – thời gian, kết cấu – cốt truyện – điểm nhìn, ngôn ngữ, thể loại… Nội dung trong tác phẩm phải được suy ra từ hình thức. Phương pháp chủ yếu của Thi pháp học là phương pháp hình thức. Chúng ta hiểu, “Phương pháp hình thức là phương pháp phân tích các khía cạnh hình thức của tác phẩm văn học nghệ thuật để rút ra ý nghĩa thẩm mỹ của nó” (Nguyễn Văn Dân). Dạy Văn theo hướng thi pháp học nghĩa là nghiêng về phân tích hình thức nghệ thuật tác phẩm.
Trong giờ giảng văn theo hướng thi pháp, cần chú ý đến thể loại vì nó chi phối tất cả các yếu tố còn lại của hình thức tác phẩm. Bakhtin nói: “Thi pháp phải bắt đầu với thể loại”. Mỗi thể loại có một đặc điểm riêng và yêu cầu phân tích theo một phương pháp riêng. Không phải ngẫu nhiên mà sách giáo khoa thường sắp xếp tác phẩm theo thể loại. Chẳng hạn, trong sách Ngữ văn 11, nâng cao, tập 1, học sinh được học và đọc thêm liền mạch các tác phẩm truyện như: Hai đứa trẻ, Cha con nghĩa nặng, Chữ người tử tù, Vi hành, Số đỏ, Việc làng, Chí Phèo, Tinh thần thể dục, Đời thừa đi kèm với bài “Đọc tiểu thuyết và truyện ngắn”. Mỗi khi dạy tới một thể loại, sách giáo khoa thường nêu chú thích về đặc trưng của thể loại đó. Có một số thể loại có thể nói lướt qua nhưng cũng có thể loại cần phải học kỹ lưỡng tại lớp. Chương trình Ngữ văn có các phần dạy luật thơ để học sinh vận dụng sáng tác văn học như: Tập làm thơ bốn chữ (lớp 6), Làm thơ lục bát (lớp 7), Làm thơ bảy chữ (lớp 8), Tập làm thơ tám chữ (lớp 9), Luật thơ Đường (lớp 10), Luật thơ (lớp 12)… Khi dạy sách giáo khoa lớp 10 (nâng cao), có thể nêu một số câu hỏi về thể loại như: Anh / Chị hiểu thế nào là thể truyền kỳ qua tác phẩm Chuyện chức phán sự đền Tản Viên ? Anh / Chị hiểu thế nào là văn biền ngẫu ?… Dạy bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, cần chỉ ra vẻ đẹp hình thức của thể văn biền ngẫu như: các vế phải đối nhau về số tiếng, thanh điệu, nhịp, nội dung, tất cả các câu đều gieo theo một vần, sử dụng nhiều điển cố và từ ngữ giàu hình ảnh… Có như vậy học sinh mới thấy được kỳ công của Nguyễn Đình Chiểu và ngưỡng mộ tài năng nghệ thuật của ông. Dạy thể loại còn phải chú ý tới “tính nội dung của thể loại”. Như thơ thất ngôn bát cú mang tính cổ kính, trang trọng, thơ lục bát đậm đà tính dân tộc, thơ tự do cho thấy tâm hồn phóng khoáng của tác giả… Nhiều nhà văn thích sử dụng một thể loại nhất định và chính điều này góp phần làm nên phong cách của nhà văn đó.
Nhân vật là hình tượng trung tâm của tác phẩm. Thi pháp học nghiên cứu nhân vật nhằm chỉ ra đặc điểm của nhân vật, nét độc đáo và vai trò của nhân vật trong việc góp phần thể hiện giá trị thẩm mỹ của tác phẩm. Để làm được điều đó, nhà Thi pháp học tiến hành nghiên cứu các phương diện sau: hệ thống loại hình nhân vật, nghệ thuật xây dựng nhân vật, quan niệm nghệ thuật về con người… Khi phân tích hệ thống loại hình nhân vật, cần chú ý chỉ ra nhân vật thuộc kiểu loại nào. Chẳng hạn, truyện cổ tích phổ biến loại hình nhân vật chức năng, truyện ngắn hiện đại phổ biến kiểu nhân vật tính cách. Một tác phẩm có thể có nhiều kiểu nhân vật, cần chỉ ra vị trí, chức năng và mối quan hệ của từng kiểu loại. Những nét kế thừa và sáng tạo của nhân vật này so với các nhân vật khác trong cùng loại hình… Muốn biết được tính cách nhân vật, cần phải phân tích nghệ thuật thể hiện nhân vật. Đó là căn cứ vào lai lịch, nghề nghiệp, hình dáng, hành động, nội tâm, ngôn ngữ nhân vật, cách xưng hô và đánh giá của tác giả và các nhân vật khác về nhân vật đó, mối quan hệ của nhân vật với mọi người và môi trường xung quanh, đồ vật mà nhân vật thường sử dụng, sở thích của nhân vật, ý nghĩa tượng trưng, khái quát của nhân vật… Để dạy học sinh biết cách phân tích nhân vật, sách giáo khoa Ngữ văn 12 (nâng cao), có mục “Các phương thức diễn tả tâm lý nhân vật” (Những đứa con trong gia đình). Mỗi nhà văn lớn thường có nhiều triết lý mới mẻ, độc đáo về về con người. Quan niệm nghệ thuật về con người mà ta hiểu ở đây chủ yếu bộc lộ trong văn bản ngôn từ, thông qua lời bình tác giả, lời các nhân vật, cách chọn kiểu loại nhân vật và nghệ thuật xây dựng nhân vật… Trong bài giảng văn, phần quan niệm nghệ thuật về con người thường ít được đặt thành mục riêng mà chỉ nói lướt qua ở phần tiểu dẫn, chủ đề hoặc kết luận. Vì trong thực tế, không phải tác phẩm nào cũng thể hiện rõ nét nội dung này. Nhưng đối với những tác phẩm thể hiện khá rõ quan niệm nghệ thuật về con người thì nên đặt nó thành mục riêng. Như: Số phận con người, A. Q chính truyện, thơ Nguyễn Công Trứ, Phan Bội Châu, truyện ngắn của Nam Cao, Bến quê, Chiếc thuyền ngoài xa, kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt… Trong bài Một người Hà Nội (nâng cao), có mục “Con người trong văn học” kèm với bài tập: “Qua chân dung Một người Hà Nội, Nguyễn Khải đã trình bày quan niệm nghệ thuật của cá nhân ông về con người. Hãy làm rõ quan niệm đó”…
“Hình tượng thế giới” không chỉ có nhân vật mà còn có không gian, thời gian, hai thành tố này cũng tương đương với hình tượng nhân vật. Thi pháp học chỉ chú ý những chi tiết không gian, thời gian nào có ý nghĩa, góp phần thể hiện cuộc sống con người, chúng vừa mang tính quan niệm lại vừa như một thủ pháp nghệ thuật (lấy cảnh tả tình). Không gian và thời gian thường gắn liền với nhau, chi phối, cộng hưởng lẫn nhau tạo ra một “thế giới mang tính quan niệm”. Cần chú ý đặc điểm của chúng trong mỗi thể loại, mỗi giai đoạn văn học, mỗi tác giả, tác phẩm. Nó có thể được phân tích ở tầm bao quát nhưng cũng có thể được phân tích ở các chi tiết nhỏ. Như lối mở đầu quen thuộc trong văn học dân gian: “Ngày xửa ngày xưa, ở một làng nọ…”, “Chiều chiều…”. Hình tượng con đường rộng mở trong thơ Tố Hữu hay cổng nhà luôn khép kín của Hoàng (Đôi mắt)… Không gian nghệ thuật gồm có: không gian sự kiện, không gian bối cảnh, không gian tâm lý, không gian kể chuyện. Thời gian nghệ thuật gồm có: thời gian được trần thuật (hình tượng thời gian) và thời gian trần thuật (thời gian kể chuyện). Tìm hiểu hình tượng thời gian, cần quan tâm ý nghĩa của các thời: quá khứ, hiện tại, tương lai, độ đo thời gian của các nhân vật, mối quan hệ giữa các loại thời gian… Tìm hiểu mối quan hệ giữa thời gian trần thuật và thời gian được trần thuật, cần lưu ý các cấp độ thời gian như: trật tự kể với trật tự thời gian sự kiện, thời lưu (độ dài các sự kiện được tính bằng câu), tần xuất (số lần lặp lại). Và các thủ pháp thời gian như: trì hoãn, gián cách, đảo tuyến, chêm xen, hoán vị, đồng hiện, bỏ lửng, che giấu, đón trước…Có nhiều tác phẩm thể hiện yếu tố không gian, thời gian nghệ thuật khá rõ nét và nên đầu tư phân tích thích đáng. Như: Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng, Thuốc, Ông già và biển cả, Chiếc lá cuối cùng, Vội vàng, Đây mùa thu tới, Tràng giang, Hai đứa trẻ, Đi đường, Chiều tối, Người lái đò sông Đà, Tiếng hát con tàu, Sang thu… Sách giáo khoa lớp 9 có câu hỏi yêu cầu học sinh phân tích hình tượng không gian trong bài Sang thu: “Phân tích sự cảm nhận tinh tế của nhà thơ về những biến chuyển trong không gian lúc sang thu”. Sách Ngữ văn 11 (nâng cao) có khá nhiều câu hỏi về lĩnh vực này: “Hãy tìm hiểu hai chiều của không gian và thời gian và mối quan hệ giữa chúng trong bài thơ Tràng giang”, “Tác giả cảm nhận về thời gian như thế nào ?” (Vội vàng), “Tìm hiểu nghệ thuật diễn tả thời gian và tâm trạng trong hai câu: “Ngày qua ngày lại qua ngày / Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng”.” (Tương tư). Ngữ văn 12 (nâng cao) có mục “Thời gian được trần thuật và thời gian trần thuật” (Rừng xà nu). Còn Ngữ văn 12 (chuẩn) có định hướng phân tích bài Thuốc dưới góc độ Thi pháp học: “Không gian nghệ thuật của truyện là tù hãm, ẩm mốc, bế tắc, nhưng thời gian nghệ thuật thì có tiến triển…”, “Ý nghĩa của chi tiết: nghĩa địa người chết chém bên trái, nghĩa địa người chết bệnh, chết nghèo bên phải, chia cắt bởi một con đường mòn”…
Trong văn học có nhiều loại kết cấu: không gian – thời gian – điểm nhìn – nhân vật – chi tiết – ngôn từ… nhưng quan trọng hơn cả là kết cấu cốt truyện. Ta hiểu, cốt truyện bao gồm cốt truyện tự nhiên (cái được kể) và cốt truyện nghệ thuật (hành động kể). Nghiên cứu cốt truyện, cần chú ý chức năng của cốt truyện và các chi tiết đắt, tình huống truyện, các lớp nội dung và mô típ… Lâu nay, trong giờ giảng văn, thầy và trò thường có thao tác tìm hiểu bố cục tác phẩm để dễ phân tích. Bố cục tác phẩm có khi đã nằm ngay trong kết cấu thể loại, như các phần đề – thực – luận – kết trong thơ Đường. Kết cấu của thể loại hịch, cáo mang tính nghệ thuật cao, bản thân của bố cục đã mang tính hùng biện. Có khi ta gặp kết cấu bề mặt – kết cấu chiều sâu, lớp nghĩa hiển ngôn – lớp nghĩa hàm ngôn (Nhớ rừng, Ông già và biển cả…). Truyện dân gian và truyện trung đại thường được kể theo trật tự tuyến tính nhưng nhiều truyện hiện đại thường theo lối trần thuật phi tuyến tính, đa tuyến nên chia bố cục không dễ dàng. Chẳng hạn, truyện Chí Phèo không thể chia đoạn theo thời gian trần thuật được mà phải chia theo hình tượng nhân vật: Chí Phèo – Bá Kiến, rồi trong Chí Phèo lại chia theo thời gian sự kiện: lúc còn lương thiện – lúc bị lưu manh hóa – lúc ý thức phục thiện. Ngoài ra, cần phải cho thấy dụng ý của tác giả khi đảo lộn thứ tự sự kiện. Chú ý khai thác các chi tiết đắt có vai trò quan trọng trong việc tạo tình huống truyện như chi tiết bát cháo hành. Trong Vợ nhặt, chi tiết nhặt vợ là ngẫu nhiên mà làm thành chủ đề tác phẩm. Bởi vậy, cần chú ý các chi tiết ngẫu nhiên và tất nhiên, bình thường và bất thường, những biến cố, tình huống… Để cho học sinh thấy được tầm quan trọng của chi tiết, sách Ngữ văn 12 (nâng cao), có mục: “Chi tiết nghệ thuật” (Số phận con người). Có những cốt truyện độc đáo do nhà văn sáng tạo ra nhưng cũng có những cốt truyện mang tính phổ biến, lặp lại một số mô típ nhất định, ta cũng cần chỉ ra ý nghĩa phổ quát của nó. Phân tích cốt truyện ngụ ngôn, có thể chia ra nội dung hiển ngôn và nội dung hàm ngôn. Nhiều nhà Thi pháp học phân chia cốt truyện cổ tích thành nhiều bước, ứng với mỗi chức năng khác nhau. Truyện Cây khế có thể chia ra 11 chức năng, bước cuối cùng có chức năng trừng phạt kẻ ác. Kết thúc có hậu là đặc trưng của thể loại truyện cổ tích.
Ngôn ngữ là yếu tố quan trọng của Thi pháp học. Không phải ngẫu nhiên mà những người khởi xướng Thi pháp học là những nhà Ngôn ngữ học. R. Jakobson chủ trương đi tìm “chất văn” đích thực của ngôn ngữ thơ ca. Còn V. Shkolovski chú trọng thủ pháp “lạ hóa”, nhòe nghĩa của nghệ thuật ngôn từ. Ngôn ngữ văn học có tính tổ chức cao, giàu hình ảnh, đa nghĩa và mang dấu ấn riêng của tác giả. Khi phân tích ngôn ngữ thơ, cần lưu ý nhạc điệu, các phương tiện và biện pháp tu từ, cách dùng từ, giọng thơ, tứ thơ… Mỗi thể loại thơ có những quy định riêng về bút pháp thể hiện. Thơ Đường luật quy định chặt chẽ về tiết tấu, bố cục. Câu hay, từ “đắt” thường nằm ở cuối bài. Ngôn ngữ thơ hiện đại mang tính tự do, không bị gò bó vào khuôn khổ nào, lời nhân vật trữ tình cũng tự nhiên và mang dấu ấn cá nhân rất rõ. Tác giả coi trọng cách diễn đạt mới mẻ nên thường có nhiều cách kết hợp ngữ nghĩa lạ thường (Thơ duyên, Đây mùa thu tới, Vội vàng, Tràng giang, Tống biệt hành, Tây Tiến, Tiếng hát con tàu…). Sách Ngữ văn 11 (nâng cao) đã yêu cầu học sinh phân tích bài Vội vàng theo tinh thần này: “Phân tích nghệ thuật của Xuân Diệu trong việc sáng tạo những câu thơ và hình ảnh thơ mới lạ, độc đáo trong bài Vội vàng”. Khi phân tích ngôn ngữ văn xuôi cần chú ý chủ thể phát ngôn: lời tác giả – lời nhân vật, lời kể – lời tả, lời trực tiếp – lời gián tiếp. Chú ý cách sử dụng các kiểu câu, cách xưng hô, giọng điệu kể, sự cá thể hóa ngôn ngữ của nhân vật và tác giả… Có thể chia ngôn ngữ văn xuôi thành hai tính chất trái ngược nhau. Một là giọng điệu tiểu thuyết, thể hiện đậm đặc trong văn xuôi hiện thực phê phán. Vũ Trọng Phụng có giọng trào phúng, Nam Cao có giọng lạnh lùng, Nguyễn Công Hoan có giọng hóm hỉnh… Ngược lại là giọng điệu sử thi thể hiện đậm đặc trong văn xuôi cách mạng. Ta có thể thấy giọng văn tin yêu, trữ tình trong Vợ chồng A Phủ, Chiếc lược ngà, giọng văn sôi nổi bừng bừng khí thế trong Rừng xà nu, Những đứa con trong gia đình… Hoặc giọng văn cổ kính trang trọng trong các tiểu thuyết chương hồi trung đại. Mỗi thể loại, giai đoạn văn học, tác giả lớn có một văn phong riêng, góp phần làm đa dạng ngôn ngữ văn học.
Thi pháp học cũng nghiên cứu cả hình tượng tác giả. Người xưa nói: “Văn như kỳ nhân”, xem văn là biết được người, đọc tác phẩm là biết ngay tác giả. Nhà văn có thể xuất hiện trong tác phẩm qua cách xưng “tôi” hoặc có thể ẩn mình. Để biết phong cách của nhà văn, có thể căn cứ vào ngôn ngữ trần thuật, cách xưng hô, giọng điệu, cảm hứng đề tài, không gian – thời gian sự kiện, cách bố cục và cách sử dụng các chi tiết trong tác phẩm… Nhà văn trong tác phẩm có thể không đồng nhất với nhà văn ở ngoài đời. Để khách quan, ta cần bám vào văn bản là chính. Ta có thể nghiên cứu phong cách chung của một nhóm nhà văn có cùng đặc điểm như: tác giả truyện cổ tích, nhà thơ Việt Nam trung đại… Hoặc phong cách của từng nhà văn lớn, có đặc điểm riêng rõ nét như: Vũ Trọng Phụng, Nam Cao, Nguyễn Tuân, Nguyễn Công Hoan, Chế Lan Viên, Xuân Diệu… Đối với những tác giả lớn được học thành bài riêng thì dựng lên chân dung tương đối dễ dàng. Nhưng đối với những nhà văn khác thì phần hình tượng tác giả thường được nhắc đến ở mục tiểu dẫn, hoặc được lồng ghép vào phần phân tích. Sách Ngữ văn 12 (nâng cao) có hẳn một bài về “Phong cách văn học”. Còn Ngữ văn 10 (nâng cao, tập 1) có mục “Cách biểu hiện chủ thể trữ tình trong thơ trung đại”. Ngữ văn 11 (nâng cao) yêu cầu phân biệt cái “ngất ngưởng” của Nguyễn Công Trứ trong Bài ca ngất ngưởng với cái “ngông” của Tản Đà qua bài Hầu trời; “Cái tôi độc đáo của Tản Đà trong bài Hầu trời (Bài viết số 6). “Qua bài thơ, có thể hình dung cái “tôi” của Xuân Diệu như thế nào ?” (Vội vàng). “Phân tích bức chân dung tự họa của Hồ Chí Minh trong Nhật ký trong tù”… Dĩ nhiên, ta hiểu đây là chân dung tác giả hiện lên trong tác phẩm chứ không phải ngoài đời.
Điểm nhìn còn được gọi là điểm quan sát, vị trí người kể chuyện, nhãn quan, cách nhìn đời… Điểm nhìn nghệ thuật có quan hệ với mọi yếu tố trong tác phẩm nên ta có các loại điểm nhìn sau: 1. Điểm nhìn tác giả: được thể hiện ở ngôi thứ nhất hoặc ngôi thứ ba vô nhân xưng và ở cách tác giả xưng hô; 2. Điểm nhìn nhân vật: là cách mà nhân vật nhìn nhận, đánh giá sự việc; có khi, nhân vật được trao điểm nhìn trần thuật; 3. Điểm nhìn tâm lý: tức là nói đến điểm nhìn bên trong hay bên ngoài, chủ quan hay khách quan; 4. Điểm nhìn tư tưởng: là thái độ, lập trường, cách nhìn đời của tác giả hay nhân vật; 5. Điểm nhìn không gian: gồm có vị trí nhìn, khoảng cách nhìn, trường nhìn, cách nhìn, sự luân phiên điểm nhìn qua các không gian…; 6. Điểm nhìn thời gian: nhìn liền mạch hay đứt quãng, nhìn kỹ hay nhìn lướt, cách sắp xếp các thời quá khứ – hiện tại – tương lai…; 7. Điểm nhìn tu từ: là cách nhìn độc đáo mang tính phát hiện của tác giả về sự vật hiện tượng. Ví dụ: “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”, “Con gió xinh thì thào trong lá biếc”…(Vội vàng). Ngữ văn 11 (nâng cao) có câu hỏi: “Anh (chị) có nhận xét gì về đặc điểm của thế giới hình tượng trong bài thơ hiện lên qua cặp mắt trẻ trung và đa tình của Xuân Diệu ?” (Vội vàng). Ranh giới các loại điểm nhìn trên chỉ mang tính tương đối và trong một tác phẩm có thể có nhiều điểm nhìn khác nhau. Điểm nhìn có thể làm thành kết cấu và chủ đề của tác phẩm như truyện ngắn Đôi mắt của Nam Cao.
Trên đây là các thành tố tạo nên cấu trúc tác phẩm văn học. Tuy nhiên, không phải lúc nào ta cũng phân tích đầy đủ các yếu tố trên mà chỉ chú trọng những yếu tố nào quan trọng, đặc sắc, thể hiện rõ ý đồ nghệ thuật của tác giả. Ta có thể thiết kế một bài giảng văn theo mô hình Thi pháp học. Như phân tích bài Qua Đèo Ngang theo kết cấu thể loại thơ thất ngôn bát cú (đề, thực, luận, kết). Bài giảng văn Đôi mắt có thể được chia theo điểm nhìn nhân vật: 1. Cách nhìn người nông dân, 2. Cách nhìn cuộc kháng chiến, 3. Cách nhìn về lãnh tụ… Đối với bài Tràng giang, có thể chia theo điểm nhìn không gian: khổ 1 (gần), khổ 2 (xa), khổ 3 (gần), khổ 4 (xa). Truyện ngắn Hai đứa trẻ có thể được chia theo các bước đi của hình tượng thời gian – không gian: 1. Cảnh chợ huyện lúc chiều tối, 2. Cảnh phố huyện ban đêm, 3. Cảnh đoàn tàu lúc đêm khuya. Chúng ta có thể kết hợp nhiều yếu tố thi pháp trong một bài làm văn. Trong bài phân tích truyện Thuốc, nên chia ra các phần sau: 1. Hình ảnh Hạ Du qua điểm nhìn của các nhân vật khác, 2. Không gian nghệ thuật, 3. Thời gian nghệ thuật, 4. Chi tiết vòng hoa trên mộ Hạ Du, 5. Ý nghĩa nhan đề tác phẩm.
Giờ dạy Văn kết hợp nhiều phương pháp khác nhau nhưng quan trọng nhất là hai phương pháp: hình thức và xã hội học. Tùy vào đặc điểm của bài học mà chú trọng phương pháp nào. Phân tích văn học dân gian hoặc thể loại ký thì phương pháp xã hội học được sử dụng nhiều hơn. Phân tích Thơ Mới thì phương pháp hình thức là chủ đạo. Phương pháp xã hội học thường được sử dụng ở phần tiểu dẫn của bài giảng văn hoặc phần mở bài, kết luận trong bài làm văn. Còn trong phần phân tích, phương pháp này cũng thỉnh thoảng xuất hiện để giải thích rõ thêm các chi tiết. Trong bài phân tích Tây Tiến, mở bài phải nói lên hoàn cảnh sáng tác. Phần thân bài cần vận dụng các kiến thức lịch sử, địa lý… để làm sáng tỏ cái sâu sắc của hình tượng (như giải thích hiện tượng “không mọc tóc”, “xanh màu lá”). Mục đích của việc dạy bài Vội vàng là giáo dục nhân sinh quan tiến bộ cho học sinh. Nếu thiếu đi phần liên hệ thực tế thì chưa đạt yêu cầu. Bởi vậy, trong việc dạy học Văn, cần kết hợp cả phương pháp hình thức và xã hội học thì mới đạt tới mục tiêu Chân – Thiện – Mỹ.
Việc dạy học Văn theo tinh thần Thi pháp học là xu hướng chung của thế giới. Ở Việt Nam hiện nay, đã có nhiều điều kiện tốt để thực hiện điều này. Chúng ta đã có một đội ngũ các nhà Thi pháp học tương đối hùng hậu. Việc phổ biến quan điểm Thi pháp học trong nhà trường đã có bề dày khoảng 20 năm. Sách giáo khoa Ngữ văn hiện hành chứa đựng rất nhiều tri thức về Thi pháp học. Các đề thi và đáp án môn Văn gần đây đã yêu cầu học sinh chú trọng phân tích hình thức nghệ thuật. Nhưng những vấn đề nói trên chỉ nằm ở dạng lý thuyết. Thi pháp học có biến thành thực tiễn sinh động hay không còn phụ thuộc rất nhiều vào sự vận dụng tích cực của thầy và trò trong giờ giảng văn.
PHẠM NGỌC HIỀN
Tài liệu tham khảo
- Trần Đình Sử – Dẫn luận Thi pháp học – NXB Giáo dục, H. 1998
- Nguyễn Văn Dân – Phương pháp luận nghiên cứu văn học – NXB Khoa học xã hội, H. 2004
- Bakhtin – Lý luận và thi pháp tiểu thuyết – Trường viết văn Nguyễn Du, H. 1992
- Huỳnh Như Phương – Trường phái hình thức Nga – NXB ĐHQG TP. HCM. 2007
- Nguyễn Thái Hòa – Những vấn đề thi pháp của truyện – NXB Giáo dục, H. 2000
- Nguyễn Thị Dư Khánh – Phân tích tác phẩm văn học từ góc độ thi pháp – NXB Giáo dục, H. 1995
- Nguyễn Xuân Kính – Thi pháp ca dao – NXB Đại học quốc gia Hà Nội, 2007
T/c Nghiên cứu Văn học, số 4/2009